]]>

23 tháng 12, 2012

Đọc thơ Thanh Hương & Phiếm luận

Tôi  không biết tí xíu gì về thơ nhưng thích đọc thơ.
Đọc những bài thơ về tình yêu, người ta có cảm giác như đang nghe những bản nhạc trữ tình hoặc đang xem bức tranh vẽ người yêu của thi sĩ.

Thơ không có dấu note tạo lên thành tiếng như bản nhạc nhưng nếu đọc đúng theo vần, với một chút tâm tư thì người ta sẽ cảm nhận được một âm thanh êm dịu.

Thơ không có nét, không có màu  sắc như hình vẽ nhưng khi  chỉ ngâm nhẹ cho mình nghe thôi thì chẳng khác gì như đang nhìn một bức tranh của thi sĩ vậy .
Ai không tưởng tượng vẻ đẹp tuyệt vời của Mộng Cầm qua những vần thơ của Hàn Mặc Tử̉ ?

Hôm nay tôi đọc bài CÓ KHÔNG  của Thanh Hương đăng trong tháng 11, cứ mỗi tháng TH đăng lên vài bài thơ chứng tỏ hồn thơ khá sung sức.

Bài thơ CÓ KHÔNG, TH mở đầu bằng những câu hỏi khá lạ
có không gian nào thật dài
chặt ngang nỗi nhớ chêm đầy nỗi đau
có thời gian nào thật sâu
cho ta ở đó thật lâu đợi người

TH không hỏi Ở ĐÂU để tìm tới nơi đợi ai đó ,mà lại hỏi chiều dài của không gian.
Rồi TH lại hỏi có thời gian nào SÂU.
SÂU, CẠN là tĩnh từ dùng cho không gian chớ đâu phải cho thời gian ?

À nhưng mà  thi sĩ nhìn không gian qua ống kính cảm xúc tâm hồn, không gian của thi sĩ  không đo bằng kích thước của đời thường. Thời gian của thi sĩ  là thời gian theo nhịp đập con tim chứ không phải thời gian theo địa cầu  quay vòng  quanh mặt trời. Cho nên thơ không dùng văn phạm hay định nghĩa của tự điển thông thường.

Những vần thơ  hỏi  nầy là lời tự thán  nỗi sầu sâu đậm và dai dẳng của mình không cần ai trả lời.  
  Chặt ngang nỗi nhớ chêm đầy nỗi đau

Theo sự xúc động tâm hồn mà Thanh Hương chơi chữ
   chém chặt nỗi nhớ mạnh hơn ngăn
  chêm đầy nỗi đau mạnh hơn thêm hơn dồn

Dù đau đớn lắm nhưng vẫn kiên nhẫn chấp nhận  chờ đợi, không tính tới thời gian sẽ chiếm bao lâu và không gian sẽ chiếm bao xa, vì  chỉ  có yêu thương là thần dược mới làm quên đi nỗi đau để rồi sẽ cùng nhau
  có vòng tay nào cuối đời
   đưa nhau qua bến ngọt lời yêu đương
   có làn môi nào thơm hương
   cho ta giữ mãi phố phường ấu thơ
Khi  gợi yêu thương thôi, lòng cảm thấy dịu lại nhớ lại những kỷ niệm êm ấm ngày xưa của phố phường thơm hương tình yêu một thuở.

Chơi chữ  tiếp theo:  GIAM HỒN mà không THẢ HỒN mình vào cõi bơ vơ?
giam hồn trong cõi bơ vơ
buông lòng trong mỗi giấc mơ ngậm ngùi

Thì ra phải hiểu GIAM  theo nghĩa GIỮ hồn theo giấc mơ của tuổi thơ ngây được nhiều nuông chiều dịu ngọt  khó quên.
Giấc mơ  là một khoảnh khắc chiêm bao cho  thấy lại những gương mặt thương yêu dầm sương dãi nắng đã khuất.
Thanh Hương đã được thương và đã thương lại. Tình thương lắng đọng trong kỷ niệm, từ thời xa xưa, nhầu nát gió sương nay bỗng trổi lên cao, tràn vào tâm thức và TH muốn đem treo nó lại một nơi nào thật cao để mãi mãi khỏi rơi vào dĩ vãng.
có không gian nào thật cao
cho ta treo ngọn tình vào cõi không
 
Đợi trong  THỜI GIAN MÊNH MÔNG là  đợi trọn đời, trọn kíếp, có phải vì quá tha thiết muốn gặp lại gương mặt mà mình đã thương yêu.
có thời gian nào mênh mông
cho ta vin bóng thu đông đợi người

Trở lại cái tựa bài thơ CÓ KHÔNG thấy cũng khá dí dỏm: không có dấu hỏi.

Thoạt đầu tôi nghĩ đó là câu hỏi. À, đặc điểm của tiếng Việt   có những chữ những câu được xử dụng dưới hình thức câu hỏi nhưng lại có nghĩa phủ định: Không (nul, aucun). Chẳng hạn câu CÓ AI BIẾT ĐÂU !!! nghĩa  là KHÔNG AI BIẾT. CÓ nghĩa là KHÔNG. Tôi ghép lại CÓ KHÔNG thành KHÔNG KHÔNG hoặc lộn lại  KHÔNG CÓ.
Và KHÔNG của CÓ KHÔNG có bao nhiêu ý?
Vào câu đầu, nhà thơ cho tôi một ý nghĩa là KHÔNG GIAN nhưng đọc đến  câu cuối  thì nghĩa của chữ KHÔNG lại là chẳng CÓ. Vì sao? Bởi vì ở đây những không gian, thời gian ước muốn của nhà thơ là chẳng có, chỉ là cơn mơ! chỉ là chiêm bao! 

Giữa thi nhân với nhau, chỉ đọc thơ  suông không cần phân tích dài dòng, người đọc vẫn thông cảm được tâm tư tác giả. Còn tôi, vì chưa từng làm thơ, tôi  phân tích từng vần, từng chữ để nhận chân được phần nào cảm xúc của tác giả. Hơn nữa, phân tích từ thơ giúp cho tôi hiểu được những thâm thúy của tiếng mẹ mà thi sĩ là người đã biết  khai thác.

Phạm Hữu Thành
 

Phạm Hữu Thành tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa và hành nghề ở Paris.
Từ một năm nay ông về hưu trí và hoạt động đóng góp nhiều hơn cho việc duy trì văn hóa VN trong cộng đồng người Việt ở Pháp.
 
                                           
Có không
có không gian nào thật dài
chặt ngang nỗi nhớ chêm đầy nỗi đau
có thời gian nào thật sâu
cho ta ở đó thật lâu đợi người
có vòng tay nào cuối đời
đưa nhau qua bến ngọt lời yêu đương
có làn môi nào thơm hương
cho ta giữ mãi phố phường ấu thơ
giam hồn trong cõi bơ vơ
buông lòng trong mỗi giấc mơ ngậm ngùi
ơn ai chia tiếng ngọt bùi
ơn ai chia một đoạn đời dẫu đau
có về đây mấy đời sau
khăn xưa áo cũ đã nhầu gió sương
có về gọi tiếng yêu thương
người xưa đã khuất cuối đường chiêm bao
có không gian nào thật cao
cho ta treo ngọn tình vào cõi không
có thời gian nào mênh mông
cho ta vin bóng thu đông đợi người.
trần thanh hương

còn chi

còn lại gì và đã mất chi
nghìn năm sau cũng vẫn chia lìa
mây trôi phương đó chiều xưa lạnh
gió tạt phương này đêm mưa bay

thêm được gì và mất bớt chi
tàn thu đông tới mấy chu kỳ
sầu ai trói chặt đời xa xứ
có chút ngọt bùi pha đắng cay

tìm được gì và lạc mất chi
người ra đi nát cả xuân thì
mơ xưa thức dậy chiều nay lạnh
mộng cũ quay về gợi gió lay

không còn gì và chẳng có chi
chuyện xa xưa nhắc tới làm gì
trời đông khơi mạch sầu thiên cổ
người đã xa rồi người có hay?

trần thanh hương


19 tháng 12, 2012

chán đời

không dưng mà thấy chán đời
không dưng mà muốn nói lời đắng cay
không dưng mà thấy lưu đày
chân vương mây bắc hồn vầy gió nam
thật lòng chỉ muốn nói ngang
thật tình chỉ muốn bước quàng dẫm xiên
đạp tung lên những bất bình
đưa chân đá nát luôn mình với ta
bực mình bắt chước yêu ma
trắng đen xanh đỏ bày ra thật đầy
không dưng ủ mặt chau mày
không dưng mà muốn chết rày chết mai
không dưng mà một thành hai
không dưng mà thấy bi hài thế gian
rắp lòng đem xẻ tâm can
chia ra trăm khúc vẫn mang một mình
chán đời thơ bỗng linh tinh…

trần thanh hương

9 tháng 12, 2012

Đi tìm “cái thần”


Tôi đã viết ba bài về thơ Thanh Hương, thế mà chưa có dòng nào bàn tới nghệ thuật, tức cái – gọi là gì nhỉ? – thôi thì, nói đại, cái … thổi hồn cho cảm xúc, tạo vẻ đẹp cho tình và ý. Và, để khỏi thiếu sót, phen này, lại đành liều mình như chẳng có, mon men tới gần nghệ thuật. Sở dĩ nói liều, vì nghệ thuật rộng quá, mà ở một số phạm vi, vốn khó có sự phân biệt rạch ròi với nội dung, nếu không khéo sẽ bị sa đà. Hơn nữa nghệ thuật lại là thứ gì đó bàng bạc, khó nắm bắt, khó phân tích, người viết dễ rơi vào những lời khen chê hời hợt, vu vơ. Thở dài một tiếng, “vu vơ” là thói thường của mấy anh chàng Việt-hán, người ta bảo thế, vậy, đã là Việt-hán, sợ gì.

Trót mang tiếng “vu vơ” thì bàn dông dài một chút, có sao. Chợt nhớ tới nhà thơ “dở hơi” Giả Đảo, đời Đường. Cái ông ba năm mới làm nổi hai câu (lưỡng cú tam niên đắc), có một giai thoại cũng “dở hơi” không kém. Một đêm sáng trăng, thiên hạ thấy ông “dở hơi”, chẳng thèm nhìn ai, vừa đi vừa lẩm bẩm, tay không ngừng làm động tác: khi “đẩy” (thôi), khi “gõ” (xao). Về sau mới biết ông đang loay hoay chọn chữ cho câu thơ: “tăng thôi nguyệt hạ môn” (sư đẩy cửa dưới trăng), hay “tăng xao nguyệt hạ môn” (sư cửa dưới trăng). Chữ nào đây? Nghĩ đi, nghĩ lại, mới thấy, ông “dở hơi” loay hoay là đúng, vì cả hai chữ đều … tuyệt vời, khó chọn thật. Từng chữ, tuy đơn giản, bình thường, nhưng lại có khả năng gợi mở nhiều suy nghĩ và cảm xúc:

- Bất kể đêm hôm khuya khoắt, sư vẫn xỏ áo, dưới trăng, tới (xao) cửa nhà bạn. Vì sao ư: có một lời chợt muốn tâm tình, có một ý hay chợt muốn chia sẻ? v. v… và v. v… Nhưng thôi, chẳng cần biết lý do, chỉ ngờ ngợ thấy rằng, đó là giao tình của những con người thanh cao.

- Bất kể đêm hôm khuya khoắt, sư vẫn một mình lang thang dưới trăng. Chán rồi, quay về chùa, thì cứ việc đẩy (thôi) cửa vào, thanh bạch, có gì đâu mà cần khóa cổng; một mình, có ai đâu mà cần gọi cửa. Hình ảnh trong câu thơ toát lên vẻ khoáng đạt, vượt khỏi cái phong thái bình bình của những kẻ chỉ biết ngày đêm tất bật, và đặc biệt làm nổi bật không khí tĩnh lặng, tĩnh lặng là khoảng khắc để ta ngẩng lên nhìn trời, cúi xuống nhìn đất và, quay lại nhìn mình.

Người viết bài này cũng chẳng cần biết ông “dở hơi” cuối cùng chọn chữ nào. Nhưng mường tượng rằng, chỉ một chữ rất tầm thường, rất thông dụng: “đẩy” và “”, nhưng dùng đúng lúc và đặt đúng chỗ, đã có thể thổi hồn cho câu thơ, gợi cho người thưởng thức biết bao tình ý. Vậy, gọi bừa đó là “cái thần”, khác đi, đó cũng là tính hàm súc, cô đọng của ngôn ngữ thơ. Thế mà, ông Giả Đảo ơi là ông Giả Đảo, đa phần thiên hạ làm gì có mắt, nên đã ghép hai chữ “thôi xao” để làm thành ngữ mỉa mai, chỉ sự cầu kỳ một cách… “dở hơi”. Thần của thơ hiếm đấy, lác đác, lác đác, như sao trời thưa, người thơ thỉnh thoảng may mà bắt được. Nhưng một đời làm thơ, nếu chẳng tìm nổi một chữ, một câu nào đáng gọi là có thần, thì trước sau chỉ là thơ của phường chợ búa.

Lang thang chán, bây giờ mới vào đề: thơ Thanh Hương, nhìn về nghệ thuật. Rộng quá, viết sao cho đủ. Thôi thì, đại khái thế này, chẳng biết có đúng không: nội dung là tình ý, là cảm xúc, còn việc chọn lọc và sắp xếp chữ nghĩa để thể hiện nội dung, khác đi diễn tả thấu suốt tình ý, lại thuộc phạm vi nghệ thuật. Thế là bài viết đã co rút, thu gọn trong một ranh giới rất nhỏ của nghệ thuật: đi tìm “cái thần” trong thơ Thanh Hương. Và, tới đây, đã có thể mặc sức bàn linh tinh về một câu, đúng hơn, một vài chữ, mà người viết đột nhiên bàng hoàng cảm được “cái thần”, rõ hơn, câu thơ càng đọc càng thấy lâng lâng, khoái chí. Vậy là đã định xong phạm vi bài viết, nhỏ thôi, so với nghệ thuật, và cũng nhỏ thôi, so với thơ Thanh Hương.

Tôi đọc thơ Thanh Hương tương đối kỹ, vậy có dịp nào gặp được “cái thần” hay không? Cũng hiếm, nhưng vẫn có đó, và mỗi lần gặp thì rất mừng, cô đã cho tôi cơ hội thả hồn, vào đâu nhỉ? - vào cõi … “vu vơ”. Đành phải cảm ơn cô một tiếng.

Thế chứ gần một trăm bài trong blog “Gởi hương cho gió”, bài nào hay? Chữ “hay” dở quá, kiểu khen rất chung chung, vậy nói khác đi một chút, bài nào “có hồn”, tức có khả năng gợi xúc cảm cho người đọc? Câu hỏi này chẳng trả lời được, vì, mỗi người mỗi ý, mỗi người nhìn thơ ở một góc độ, ở một thời điểm, ở một tâm trạng khác nhau, nên khó đưa ra ý kiến chung, thống nhất. Riêng tôi – lại chủ quan mất rồi, đành chịu vậy – trước sau vẫn đặc biệt thích bài “biết không”. Mà nói “thích” e rằng chưa đủ, phải nói là “say” mới đúng.

“Biết không” đã được anh NTT bình về nội dung. Vậy mặt này thế là đủ rồi, không cần thêm thắt nữa. Người viết tự ý dành riêng cho mình một khoảng nhỏ, để “vu vơ” đôi lời về “cái thần” chợt ẩn, chợt hiện.

Bài làm đều tay, nghĩa là không có chữ và câu nào sượng. Lời đẹp và tình ý thâm trầm thì cũng nhiều, chẳng hạn:
người biết không tôi như mưa bay
lạc trăm năm vẫn nhớ một ngày.

Thế nhưng “say” nhất vẫn là bốn câu cuối:
          người biết đâu tôi nhớ vô cùng
         mắt ai tìm chia nỗi nhớ nhung
         tôi con chim lạc sầu đêm tới
         thấy ánh sao khuya vẫn ngại ngùng

Và câu thơ khiến người viết đột nhiên cảm được “cái thần”, chính là: mắt ai tìm chia nỗi nhớ nhung
Như thế, trọn bài chỉ xin rút về một câu. (Vậy mà cũng dám lộng ngôn: “bàn tới nghệ thuật” trong thơ Thanh Hương, liều đấy, nhưng đã sao, khả năng chỉ có vậy, xin thứ lỗi cho.)

Thử nhìn từng chữ, từng chữ:
Trước hết, chữ “nhớ nhung”, tâm trạng của hai con người – vì lý do nào đó, ở đời có biết bao lý do – buộc phải xa, mà không thể quên nhau được, nó hàm chứa tình yêu, thời gian bất lực không đủ làm phai, nó cũng hàm chứa nỗi đau, thời gian chỉ làm tâm hồn thêm héo mòn, đó chính là định mệnh, luôn rình rập để cười cợt sự bất hạnh của con người. Nỗi “nhớ nhung” có thể đơn phương, đến từ một phía, còn đối tượng dửng dưng, vô tình. Ngược lại nỗi nhớ có thể đến từ cả hai phía, cả hai cùng nhớ nhau, vậy mà, buồn thật, chỉ tan, không hợp.

Tôi đã làm công việc rất lẩn thẩn, thử thay “nhớ nhung” bằng một vài chữ khác, chẳng hạn “xót thương” hoặc “đau thương”, hay “xót xa” (không tính tới chuyện lạc vận), mắt ai tìm chia nỗi xót thương (xót xa, đau thương), câu thơ vẫn có nghĩa, nhưng dở quá. Ba từ đó chỉ diễn tả nỗi đau của riêng mình, còn “nhớ nhung” là tình cảm chủ yếu dành cho người, nó tìm tới đối tượng, đúng hơn, của hai người dành cho nhau, đó mới là tình yêu. Kết luận nhỏ: “nhớ nhung” là từ không thể thay được, nó là cái “mắt” của câu thơ.  

Nỗi “nhớ nhung” ấy không thể ôm mãi trong lòng, nên muốn được “chia”, để cả hai cùng biết, và cả hai cùng nhận. “Chia” chính là nhu cầu của con người, lạnh quá, không chịu nổi sự cô đơn. Thế nhưng, nỗi buồn “chia”, có thể vơi đi một phần, vì đối tượng không buồn, sẽ “chia” giùm một ít, còn “nhớ nhung” có “chia”, một khi cả hai cùng nhớ, thì cuối cùng cũng vẫn cứ đầy ắp mà thôi. Như thế “chia” ở đây cũng hiểu là lời “nhắc”, nhắc cho đối tượng biết tấm lòng, dù xa nhau, vẫn tràn ngập yêu thương của mình.

Nhớ nhung” đã “chia” rồi, nhưng ai chia và chia cho ai? Thử tìm trong mấy chữ “mắt ai tìm
Câu thơ có thể ngắt hơi theo hai cách, mang hai ý nghĩa khác nhau:
 mắt ai tìm chia nỗi nhớ nhung
 mắt ai tìm chia nỗi nhớ nhung

Ngắt hơi theo cách thứ nhất: mắt ai, đôi mắt của ai đó (hay của anh), từ chốn xa xôi nào, đang tìm tới – ở đây có một túc từ ẩn (objet sous-entendu) – tôi (hay em), để chia nỗi nhớ nhung.
Ngắt hơi theo cách thứ hai – ở đây có một chủ từ ẩn (sujet sous-entendu) – tôi (hay em) ở nơi xa xôi, vẫn mong ước tìm tới mắt ai, để chia nỗi nhớ nhung
Tóm lại, đây là nỗi nhớ nhung của cả hai bên, muốn chia sẻ và nhắc cho nhau biết. Câu thơ dạt dào tình cảm, dạt dào yêu thương, và cũng dạt dào đau buồn.

Tôi lại lẩn thẩn, thử đảo lộn vị trí của chữ trong câu:
mắt ai tìm chia nỗi nhớ nhung
thành
tìm mắt ai chia nỗi nhớ nhung
Câu vẫn có nghĩa, nhưng chỉ có thể hiểu một cách, với chủ từ (ẩn) duy nhất là “tôi”. Ý thơ hẹp lại, trở thành con đường một chiều, từ “tôi” tới “đối tượng”, như vậy không còn là tình yêu đích thực: con đường hai chiều, hay sự tương thông bất tận giữa hai con người.

Vậy mới thấy, chữ nghĩa Thanh Hương chọn và sắp xếp cho câu thơ trên – mở ngoặc một chút, riêng câu trên thôi nhá – là không thể thay thế được, không thể đảo lộn được, theo tôi – lại chủ quan – chúng đã đạt tới mức toàn hảo. Đây chính là “cái thần” của câu thơ.

Lang bang như vậy chắc cũng đủ rồi. Này cô, nói nhỏ một chút, cái câu thơ "vớ vẩn" mắt ai tìm chia nỗi nhớ nhung đã làm tôi một đêm loay hoay, mất ngủ. Ừ, mà cũng đáng, nên, cố viết bài này để cảm ơn cô.

Vũ Lưu Xuân
(22/07/2012)



Vũ Lưu Xuân là bút hiệu của Vũ Mạnh Thường, cựu SV Đại học Sư phạm Sàigòn, ban Việt Hán, khóa 1964-1968.
Hiện ông cư ngụ tại Sài Gòn và chuyên về dịch thuật. Hội họa cũng là một đam mê mà ông theo đuổi.
Tác phẩm đã xuất bản: tập truyện "Hương Hồng Quế" do Cội Nguồn ấn hành năm 2009.


biết không

người biết đâu tôi như giọt lệ
chảy âm thầm xuống cuối đời nhau
người biết đâu tôi như hạt bụi
rất mong manh giữa nắng mưa sầu

người biết đâu cây đời lạnh lắm
cứ cho hoài những nhánh ăn năn
người biết đâu tôi khờ khạo lắm
mãi ham vui nên cứ sai lầm

người biết không tôi như mưa bay
lạc trăm năm vẫn nhớ một ngày
sương cao mát ngọt mầm khô héo
tôi hoa gầy giữa núi cheo leo

người biết không một lần qua đây
hồn mênh mông bão tố lên đầy
tôi cơn mơ nhỏ đời giăng lưới
ngẩn ngơ nhìn sợi khói tình bay

người biết đâu tôi nhớ vô cùng
mắt ai tìm chia nỗi nhớ nhung
tôi con chim lạc sầu đêm tới
thấy ánh sao khuya vẫn ngại ngùng.

trần thanh hương
(08/04/2012)

trống rỗng

sáng thức dậy nghe đầu mình trống rỗng
hồn ngu ngơ sao vẫn thấy thật buồn
nghe rất nhẹ dư âm nghìn tiếng động
lối xưa còn vang vọng mấy hồi chuông

sáng thức dậy nghe đêm dài trĩu nặng
giấc mơ tan sao vẫn nhớ vô cùng
xa hun hút bên kia trời biển lặng
áo xưa còn lay vạt thoáng đời chung

sáng thức dậy nghe kinh lời cựu ước
hồn bơ vơ như chim nhỏ xa bầy
dẫu trước sau cứ trật hoài nhịp bước
vẫn đợi chờ dù chỉ thấy heo may

sáng thức dậy nghe quanh mình trống rỗng
người quên nhau như chim bỏ quên lồng
bởi hôm nay chưa là ngày hôm trước
nên đi về quên nhớ cũng bằng không.

trần thanh hương